Danh nhân Quảng Ngãi
Huyền thoại Sư trưởng Trương Hồng Anh (1948-1984)
|
Nguyễn Năng Lự (1910- 1944)
Trương Quang Giao (1910- 1983)
Trương Quang Giao người làng Mỹ Khê, nay thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh.
Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 9/1930, sau đó trở thành Bí thư đầu tiên của chi bộ Mỹ Khê. Từ cuối năm 1931 đến năm 1934, Trương Quang Giao bị Pháp cầm tù. Năm 1936, ông tham gia phong trào Mặt trận Bình dân, là thành viên Ủy ban mặt trận đấu tranh, phụ trách Hội Ái hữu tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 25/02/1939, Trương Quang Giao lại bị Pháp bắt, xử tù 5 năm, đày đi Buôn Ma Thuột. Ở đây, ông và các bạn tù là Phạm Kiệt, Trần Quý Hai, Trần Lương (cùng quê Quảng Ngãi) bí mật tiếp tục hoạt động cách mạng, liên lạc với tổ chức Đảng bên ngoài.
Tháng 02/1944, địch chuyển ông về Căng An Trí Ba Tơ. Ở đây ông cùng Phạm Kiệt (chuyển về Ba Tơ năm 1943), Nguyễn Đôn, Trần Quý Hai, Trần Lương kiện toàn chi bộ Đảng, xây dựng Ủy ban Vận động Cứu quốc tỉnh. Cuối tháng 12/1944, Tỉnh ủy Quảng Ngãi được thành lập, do ông làm Bí thư, lãnh đạo phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật trong toàn tỉnh mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (11/3/1945) và khởi nghĩa, giành chính quyền ở Quảng Ngãi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trong kháng chiến chống Pháp, Trương Quang Giao giữ nhiều chức vụ quan trọng ở Liên khu V như: Chính ủy Bộ tư lệnh Khu V, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam- Đà Nẵng, Bí thư Ban Cán sự Tây Nguyên, Bí thư Liên khu ủy V.
Trương Quang Giao tập kết ra Bắc năm 1955, lần lượt giữ các chức vụ: Phó ban Tổ chức Trung ương, Ủy viên Ban kiểm tra Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất của Chính phủ.
Ông mất năm 1983 tại Đà Nẵng.
|
Nguyễn Thiệu (1903- 1989)
Ông người làng Thạch Trụ, nay thuộc xã Đức Lân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng ngãi. Ông đỗ Tú tài Tân học năm 1923, thường được gọi là Tú Thiệu.
Nguyễn Thiệu là một trong những người thành lập "Công Ái xã’, sau đó ông gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, được cử đi dự lớp huấn luyện ở Quảng Châu, Trung Quốc (1926), rồi trở về quê mở nhiều lớp huấn luyện cho thanh niên, xây dựng cơ sở tổ chức của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Ngãi.
Tháng 5/1929, Nguyễn Thiệu là đại biểu Kỳ bộ Trung Kỳ đi dự Đại hội của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Hồng Kông (Trung Quốc). Mùa Thu năm 1929, tổ chức An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ, ông là một trong 6 ủy viên Ban lâm thời chỉ đạo.
Tháng 2/1930, ông và Châu Văn Liêm là đại biểu tổ chức An Nam Cộng sản Đảng tham dự Hội nghị hợp nhất- thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức tại Hồng Kông (Trung Quốc).
Những năm 1930- 1931, Nguyễn Thiệu là ủy viên Xứ ủy Nam Kỳ, kiêm bí thư liên tỉnh Mỹ Tho- Bến Tre- Cà Mau. Cuối tháng 4 năm 1930, Tỉnh ủy Lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Mỹ Tho được thành lập, Nguyễn Thiệu được cử làm Bí thư.
Năm 1932, ông bị Pháp bắt, kết án khổ sai chung thân, đày đi Côn Đảo.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Nguyễn Thiệu được Chính phủ cách mạng đón về đất liền.
Trong kháng chiến chống Pháp ông được bổ sung vào Tỉnh ủy Quảng Ngãi, sau đó giữ chức Giám đốc Hoa kiều vụ Liên khu V.
Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, Nguyễn Thiệu tập kết ra Bắc, tham gia xây dựng Viện bảo tàng Cách mạng Việt Nam (giữ chức Viện phó, rồi Viện trưởng).
Ông mất năm 1989 tại thành phố Hồ Chí Minh.
|
Trương Quang Trọng (1906- 1931)
Trương Quang Trọng sinh năm 1906 tại làng Phú Nhơn, nay thuộc thị trấn Sơn Tịnh, huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi. Đầu thập niên 20 thế kỷ XX, Trương Quang Trọng ra Huế học ban Thành chung, rồi cùng một số bạn học cùng chí hướng thành lập Hội học sinh Ái hữu Trung Kỳ, có xu hướng tiến bộ, yêu nước.
Cuối tháng 7/1929, ông tập hợp các đồng chí tích cực trong Tỉnh bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại núi Xương Rồng (huyện Đức Phổ) thành lập tổ chức “Dự bị Cộng sản”. Cuối năm 1929, ông cùng 20 đồng chí bị Pháp bắt giam ở nhà lao Quảng Ngãi. Đầu năm 1931, Pháp chuyển số tù nhân này vào lao Quy Nhơn, rồi đưa lên ngục Kon Tum. Đến cuối năm, địch âm mưu chuyển tù chính trị ở Kon Tum đi làm đường ở Đắk Pết, hòng lợi dụng lam sơn chướng khí và lao động khổ sai giết dần giết mòn những người tù yêu nước. Trương Quang Trọng cùng Đặng Thái Thuyến, Nguyễn Lung (Nghệ An), Nguyễn Long (Hà Tĩnh), Lê Trọng Kha (Quảng Ngãi),… quyết định đấu tranh phản kháng và ông được cử làm trưởng ban.
Ngày 12/12/1931, cai ngục truy bức người tù đi lao động khổ sai, Trương Quang Trọng hiên ngang đấu tranh và bị bắn chết. Số tù nhân còn lại quyết liệt đấu tranh, buộc địch phải nhượng bộ, hủy bỏ việc bắt tù đi làm đường. Lịch sử gọi đây là “cuộc đấu tranh lưu huyết” ở ngục Kon Tum |
Trần Kỳ Phong (1872 - 1941)
Trần Kỳ Phong (có tên tự là Nghĩa Bình, hiệu là Châu Khê), sinh năm Nhâm Thân - 1872, trong một gia đình gốc Minh Hương ở làng Châu Me Đông, nay thuộc xã Bình Châu, huyện Bình Sơn.
Thở nhỏ, Trần Kỳ Phong theo học người thầy cùng làng tên là Phan Khắc Hải và tỏ ra có tư chất thông minh, hiếu học. Mến tính người học trò chăm ngoan, ông thầy họ Phan đã nhận Trần Kỳ Phong làm con nuôi, cho theo đòi nghiên bút.
Năm Mậu Tý (Đồng Khánh năm thứ 3- 1888), Trần Kỳ Phong thi đỗ tú tài, nên người đời thường gọi là “ông Tú Châu Me”. Năm 1889 ông nhận lời đến dạy học tại một gia đình họ Nguyễn ở thôn Lệ Thủy (nay thuộc xã Bình Trị, huyện Bình Sơn), sau đó kết hôn với người con gái của gia đình này. Thời gian dạy học, Trần Kỳ Phong kết giao với nhiều văn thân, nho sĩ trong tỉnh, gia nhập nghĩa hội Cần Vương. Những năm 1895- 1896, ông tham gia các hoạt động yêu nước dưới sự lãnh đạo của Trần Du. Cuộc mưu khởi của Trần Du thất bại, phong trào Cần vương ở Quảng Ngãi suy yếu và đi dần đến tan rã. Tuy vậy ngọn lửa quật cường không chịu khuất phục kẻ thù vẫn âm thầm nung nấu trong tâm can những người yêu nước, chờ thời cơ vùng dậy đối mặt với kẻ thù. Đầu thế kỷ XX, trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây bắt đầu truyền bá vào Việt Nam, thông qua tân thư, tân văn Trung Quốc, gióng lên hồi chuông “tỉnh ngộ” đối với các sĩ phu yêu nước đang khao khát tìm kiến một con đường cứu nước mới. Năm 1904, Trần Kỳ Phong có cuộc hội ngộ với nhà yêu nước Phan Bội Châu, từ đó ông bắt đầu tiếp cận tân thư, chịu ảnh hưởng của các phong trào Duy Tân, Đông Du, dần dần chuyển sang quan điểm cách mạng dân tộc, dân chủ. Năm 1906, Hội Duy Tân ở Quảng Ngãi được thành lập do Lê Đình Cẩn, Nguyễn Bá Loan lãnh đạo. Trần Kỳ Phong trở thành một nhà hoạt động xuất sắc của hội, có nhiều ảnh hưởng đối với quần chúng. Ngoài việc tổ chức công tác tuyên truyền trong tỉnh, ông còn giữ mối liên lạc với phong trào yêu nước ở các tỉnh bạn và với Phan Bội Châu. Cuối năm 1906, Trần Kỳ Phong cùng Lê Đình Cơ đi gặp Phan Bội Châu tại Quảng Đông, nhận chỉ thị của Phan Sào Nam và mang một số tài liệu (Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư…) về Quảng Ngãi, phổ biến trong học giới và nhân dân. Năm 1908, phong trào Kháng thuế - Cự sưu nổ ra ở Trung Kỳ, Trần Kỳ Phong cùng một số nhà yêu nước tham gia lãnh đạo phong trào. Ông và Lê Ngung (1886- 1916) được phân công liên hệ với phong trào Quảng Nam, sau đó theo đường núi ra Bắc, tìm đến căn cứ Đề Thám để tìm hiểu cuộc khởi nghĩa Yên Thế và vận động đồng bào các tỉnh phía Bắc hưởng ứng phong trào chống sưu cao, thuế nặng của nông dân Trung kỳ. Sau khi phong trào chống sưu thuế bị thất bại, thực dân Pháp và tay sai đàn áp dã man những người yêu nước. Trần Kỳ Phong bị tòa án Nam triều Quảng Ngãi kết án tử hình vắng mặt. Nhận được hung tin, Trần Kỳ Phong và Lê Ngung định lánh ra nước ngoài nhưng không thành, phải quay trở lại Quảng Nam và sau đó bị bắt ở Hội An. Ngày 18.5.1909, tòa Khâm phái Nam triều xét lại bản án của tòa án Nam triều Quảng Ngãi (năm 1908), giảm án Trần Kỳ Phong xuống “xử trảm giam hậu, phát giao Côn Lôn”. Ngày 1.12.1913, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut lại ký lệnh đổi án xử trảm giam hậu thành án 13 năm tù khổ sai tại nhà tù Côn Đảo; sau đó, án lại giảm còn 11 năm, nên đến tháng 3 năm 1921 ông mãn hạn tù, trở về quê nhà. Trong thời gian bị tù đày, ngoài việc trì chí học thêm Quốc ngữ, toán pháp, khoa học thường thức, Trần Kỳ Phong bí mật còn tiếp cận một số tài liệu giới thiệu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác, nên có được một số hiểu biết về cách mạng vô sản. Ra tù, tuy bị quản thúc tại gia, Trần Kỳ Phong vẫn âm thầm nuôi ý chí đấu tranh. Ông mở tiệm thuốc bắc và dạy học, bí mật liên hệ với các nhà yêu nước. Sau khi Tỉnh Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên Quảng Ngãi ra đời (1927), Trần Kỳ Phong liên hệ và có các hoạt động nghiêng theo đường hướng của tổ chức này. Mùa thu năm 1929 ông bị bắt và bị kết án 11 tháng tù giam. Khi ra tù lại tiếp tục hoạt động yêu nước. Mùa xuân năm 1930, Đảng bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi được thành lập, ông trở thành một cảm tình viên cao niên, tham gia hoạt động theo sự phân công của những người cộng sản.
Ngày 1 tháng 3 năm 1937, Trần Kỳ Phong là người dẫn đầu đoàn đại biểu nhân dân Quảng Ngãi, đón phái viên của Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp Godart, trình bày nỗi thống khổ của người dân xứ sở thuộc địa Pháp và đưa bản yêu sách có hàng vạn chữ kí của quần chúng trong tỉnh. Sự kiện này gây một tiếng vang lớn ở Trung kỳ và cả nước.
Từ năm 1939, Trần Kỳ Phong chuyển về sống ở quê vợ, thôn Lệ Thủy, phủ Bình Sơn, nay thuộc xã Bình Trị, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 26.12.1941 ông từ trần, thọ 69 tuổi. Có một vài tài liệu cho rằng Trần Kỳ Phong là người đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin ở Quảng Ngãi, song sự thật lịch sử cho thấy ý kiến này chưa thật sự thuyết phục.
Sinh thời, nghe tiếng Trương Quang Cận (Hương Năm) thực hiện những đổi mới hương thôn ở Trà Bình Trại (nay thuộc xã Tịnh Trà, huyện Sơn Tịnh) ông có đến thăm viếng, kết thân và gọi ngôi làng của Hương Năm là “Cộng sản lạc thôn”, song thực chất Trà Bình Trại chỉ là một mô hình làng xã cải cách theo xu hướng của các nhà Duy Tân. Chủ nghĩa Mác và quan điểm cách mạng vô sản rồi sẽ được truyền bá vào vùng đất Quảng Ngãi một cách có hệ thống, thông qua những nhà cách mạng thanh niên- tân học, chịu ảnh hưởng từ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, mà nổi bật là những tên tuổi Nguyễn Thiệu, Trương Quang Trọng, Nguyễn Nghiêm, Hồ Độ, Lê Trọng Kha… Với Trần Kỳ Phong, mặc dù có những hoạt động theo chủ trương và sự phân công của Đảng bộ Cộng sản Quảng Ngãi, song về cơ bản ông vẫn là một chí sĩ yêu nước, một nhà cách mạng theo quan điểm dân chủ tư sản. Trần Kỳ Phong được những người đương thời nhắc đến như là một tấm gương sáng về ý chí rèn luyện không ngừng, lấy nhà tù làm trường học, ưa thích tìm hiểu những quan điểm mới của thời đại; song có lẽ điều quý giá nhất, có ý nghĩa sâu sắc trong cuộc đời ông chính là tấm lòng sắc son, không ngại gian khó, tù đày, nhất tâm vì đồng bào, tổ quốc.
Lê Hồng Khánh
|
Nguyễn Nghiêm (1904- 1931)
Nguyễn Nghiêm sinh năm 1904, người làng Tân Hội, nay thuộc xã Phổ Phong, huyện Đức Phổ, là chiến sĩ cách mạng vô sản, Bí thư đầu tiên của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi.
Nguyễn Nghiêm bắt đầu tham gia các hoạt động yêu nước từ năm 14 tuổi. Năm 20 tuổi (1924), ông tiếp xúc với cụ Trần Kỳ Phong và được nghe nhà cách mạng lão thành đề cập và ca ngợi chủ nghĩa cộng sản. Năm 1925, Nguyễn Nghiêm, Nguyễn Ngọc Thụy, Trần Kỳ Truyện lập Công Ái xã và bắt đầu tìm hiểu chủ nghĩa Mác- Lênin. Về sau Công Ái xã giải thể, các thành viên tích cực trong đó có Nguyễn Nghiêm chuyển hướng hoạt động và gia nhập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Cuối năm 1927, Tỉnh bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên thành lập, ông được cử vào ban chấp hành, phụ trách huyện Đức Phổ.
Tháng 7/1929, Bí thư Tỉnh bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên Quảng Ngãi Trương Quang Trọng tập hợp một số đồng chí tại núi Xương Rồng (huyện Đức Phổ) thành lập tổ chức “Dự bị Cộng sản”, Nguyễn Nghiêm được giao nhiệm vụ xúc tiến thành lập Đảng bộ tỉnh. Tháng 8/1929, Trương Quang Trọng, Hồ Độ và một số yếu nhân của Tỉnh bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên Quảng Ngãi bị bắt, Nguyễn Nghiêm lãnh đạo các hội viên còn lại thực hiện chủ trương vô sản hoá, cử một số cán bộ liên hệ với các tổ chức cộng sản trong nước.
Ngày 03/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Ngay sau đó, Nguyễn Nghiêm đã bắt liên lạc với Đảng và đến giữa tháng 3/1930, Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi được thành lập do ông làm Bí thư lâm thời. Tháng 6 năm đó, tại Đại hội Đảng bộ lần thứ I, tiến hành tại làng Hùng Nghĩa, xã Phổ Phong, huyện Đức Phổ, Nguyễn Nghiêm được cử làm Bí thư đầu tiên của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 01/8/1930, Đảng bộ tổ chức rải truyền đơn, treo biểu ngữ ở nhiều nơi trong tỉnh, khiến kẻ địch hoang mang, ảnh hưởng của Đảng bộ bắt đầu lan rộng trong quần chúng. Đêm 07/10/1930, Nguyễn Nghiêm trực tiếp lãnh đạo trên 5.000 người xuống đường biểu tình, mít tinh tấn công và làm chủ huyện đường Đức Phổ cho đến sáng hôm sau. Ngày 13/10, Tỉnh ủy họp ở làng Nghĩa Lập (huyện Mộ Đức), chủ trương tiếp tục biểu tình công khai và về tổ chức, Tỉnh ủy chia làm hai bộ phận: bộ phận phía Nam tính từ sông Trà Khúc trở vào do Nguyễn Nghiêm lãnh đạo, phía Bắc tỉnh từ sông Trà Khúc trở ra do Phan Thái Ất phụ trách. Nguyễn Nghiêm đi Quảng Nam tìm bắt liên lạc với Xứ ủy Trung Kỳ, xin chỉ thị về việc dấy lên cao trào mùa Xuân năm 1931. Khi về đến Bình Sơn, ông lọt vào tay địch nhưng trốn thoát được, lên Trà Bình. Sau đó, theo ủy nhiệm của Xứ ủy, ông vào Bình Định, Phú Yên để củng cố các tổ chức cơ sở Đảng.
Sau cuộc biểu tình đầu năm 1931, địch bắt mẹ, vợ và đốt nhà Nguyễn Nghiêm, treo giải thưởng cho ai lấy được đầu ông. Ba Tỉnh uỷ viên ở phía Nam tỉnh bị bắt. Nguyễn Nghiêm chuyển cơ quan Tỉnh ủy từ Tân Hội về Gò Huyện (huyện Mộ Đức). Các Đảng viên dự bị được lệnh thoát ly. Tỉnh ủy phát động “3 ngày căm thù” (16,17,18/02/1931), làn sóng đấu tranh vùng lên mạnh. Địch ra sức khủng bố, truy lùng. Nguyễn Nghiêm phải cải trang dời về Sông Vệ, sau đó về làng An Đại (huyện Tư Nghĩa). Trên đường đi nắm tình hình, Nguyễn nghiêm bị bắt đêm 15/1 năm Tân Mùi (06/3/1931).
Trong tù Nguyễn Nghiêm giữ vững ý chí cách mạng. Mặc cho thực dân Pháp và Tuần vũ Nguyễn Bá Trác lôi kéo, dụ dỗ, tra tấn, ông vẫn giữ tròn khí tiết, tìm cách móc nối với phong trào, xây dựng Chi bộ Đảng trong tù. Không lay chuyển được ý chí của người Cộng sản trung kiên, địch đem Nguyễn Nghiêm ra “xử trảm” theo Luật Gia Long, tại bãi sông Trà Khúc vào 3 giờ sáng 23/4/1931.
|
Phạm Văn Đồng (1906 - 2000)
Phạm Văn Đồng quê ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, là nhà hoạt động cách mạng xuất sắc, sau khi bị địch bắt đày ra Côn Đảo (7.1929), ra tù về Hà Nội ông tiếp tục hoạt động cách mạng, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (1940).
Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng và có nhiều công lao trong xây dựng và quản lí nhà nước như: Bộ trưởng Bộ Tài chính Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; Phó thủ tướng Chính phủ, Phó chủ tịch Hội đồng Quốc phòng, kiêm bộ trưởng Bộ Ngoại giao; Trưởng phái đoàn Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị Giơnevơ (Geneve) về Đông Dương; Thủ tướng Chính phủ; Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Phạm Văn Đồng còn là nhà nghiên cứu văn hóa với nhiều tác phẩm nghiên cứu có giá trị: “ Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam”, “Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời đại”, “Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu nước mạnh”, “Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh”, “Văn hóa và đổi mới”,…
Ông được tặng thưởng Huân chương Sao vàng và nhiều huân chương cao quý khác.
|
Nguyễn Công Phương (1888- 1972)
Nguyễn Công Phương người làng Hòa Vinh, nay thuộc xã Hành Phước, huyện Nghĩa Hành. Ông liên tục tham gia các phong trào yêu nước chống Pháp từDuy tân Hội (1906), đến kháng thuế cự sưu (1909), Việt Nam Quang phục Hội. Năm 1926 ông bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu chủ nghĩa cộng sản và đến năm 1927 chuyển sang hoạt động theo khuynh hướng cách mạng vô sản của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1930, sau khi Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi thành lập, ông được kết nạp vào Đảng. Tháng 10 năm đó được bầu vào Tỉnh ủy, được phân công là dự bị Bí thư, rồi là Bí thưTỉnh ủy Quảng Ngãi (1935- 1937), nhiều lần bị địch bắt tù đày.
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông lần lượt giữ các chức vụ Chủ tịch UBND cách mạng huyện Nghĩa Hành, Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Quảng Ngãi, Chủ tịch Ủy ban Liên Việt miền Nam Trung bộ, ủy viên đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tháng 6/1969, Nguyễn Công Phương được Đại biểu Đại hội Quốc dân miền Nam bầu làm ủy viên Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Ông qua đời năm 1972.
|
Trần Toại(1892- 1948)
Trần Toại (Giáo Đàm), biệt hiệu là Kim Tương, người làng Thi Phổ Nhất, nay thuộc thị trấn Đồng Cát, huyện Mộ Đức, thi đỗ Tú tài Hán học. Ông tham gia các hoạt động yêu nước thời kỳ 1908- 1916, tham gia thành lập “Hội Thiếu niên ái quốc”, rồi bị Pháp bắt bỏ tù. Năm 1927, ông gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, rồi trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Chi bộ đầu tiên của huyện Ba Tơ (mùa Xuân năm 1930), Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên (1931).
Tháng 7/1931, ông bị pháp bắt, kết án khổ sai chung thân, đày đi Buôn Ma Thuột, nhưng bị bệnh nên chúng đưa về Căng An Trí Ba Tơ giam giữ. Tại đây ông đã góp phần tích cực vào cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ (11/3/1945).
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Trần Toại được cử là Chủ tịch (đầu tiên) của Ủy ban nhân dân Cách mạng tỉnh Lê Trung Đình (Quảng Ngãi). Ông bị bệnh qua đời năm 1948.
Phạm Cao Chẩm (?- 1918)
|
0 nhận xét:
Đăng nhận xét